Quyết bào mòn sách vở - để lập trình tương lai

++ CLOISTERER, STUDENT AND YOUTH PHU QUY GROUPS ++ IN SAI GON ++ WE LOOK FORWARD TO THE CONTRIBUTION AND SHARE YOU ALL ! ++

Thứ Sáu, 9 tháng 11, 2012

12 Ðiều Mà Mọi Người Công Giáo Phải Trả Lời Ðược


Kính gửi đến quý độc giả bài sau đây để thêm chất liệu suy nghĩ về đời sống đức tin chúng ta.
Tác giả: DEAL HUDSON
GLV Phaolô Phạm Xuân Khôi chuyển ngữ
 
Tự do ngôn luận là một điều cao quý. Tiếc rằng chúng ta phải trả một giá rất đắt cho nó: Khi dân chúng được quyền tự do muốn nói gì thì nói, họ đôi khi dùng sự tự do đó để nói những điều ngớ ngẩn.  Và đó là 12 điều mà chúng tôi sẽ bàn ở đây.
Có một ít điều được nhắc đi nhắc lại, có những điều khác thì họa hiếm mới được nhắc đến, trong khi những người đề xướng những sai lầm này tự do quảng bá chúng, chúng ta là người Công Giáo có nhiệm vụ phải trả lời.
 
 
1. "Không có gì là chân lý tuyệt đối cả. Ðiều đúng cho bạn chưa chắc đã đúng cho tôi."

Người ta dùng lý luận này rất nhiều khi họ không đồng ý với một câu nói và không có cách nào khác để chống đỡ tư tưởng của mình. Vậy, nếu không có gì là đúng cho tất cả mọi người, thì họ muốn tin gì thì tin, và không thể nói gì để làm họ đổi ý cả.


Nhưng hãy nhìn lại câu nói "Không có gì là chân lý tuyệt đối cả" một lần nữa. Có phải chính câu này đã khẳng định nó là điều tuyệt đối không? Nói cách khác, nó áp dụng ít qui luật hay tiêu chuẩn cho mọi người -- chính là điều mà những người theo tương đối nói là không thể được. Họ đã hóa giải lập luận của họ bằng cách đưa ra lập luận của họ.  


Một vấn đề khác với câu này là không có một người theo thuyết tương đối nào lại thật sự tin điều đó. Nếu có ai nói với bạn, "Không có chân lý tuyệt đối nào cả," và bạn thụi vào bụng người đó, người đó có lẽ sẽ nổi nóng. Nhưng theo niềm tin của anh ta, anh ta phải nhận rằng đấm vào bụng ai có thể sai đối với anh, nhưng có thể đúng đối với bạn.


Khi đó họ sẽ trở lại với một bổ túc cho câu nói nguyên thủy là: "Bao lâu bạn không làm đau người khác, bạn tự do muốn làm gì và tin gì tùy ý."  Nhưng đây chỉ là một sự phân biệt tùy ý (cũng như là câu nói tuyệt đối khác). Ai nói là tôi không được làm đau người khác? Cái gì là đau? Luật này từ đâu mà đến?

Nếu câu này được đưa ra dựa theo quyền của cá nhân, thì không có nghĩa gì đối với người khác. "Ðừng làm hại" chính nó là một thỉnh cầu đối với một cái gì cao trọng hơn - một loại phẩm giá chung  của con người. Nhưng câu hỏi lại là phẩm giá từ đâu đến.


Như bạn có thể thấy, càng đi sâu vào những câu hỏi này, thì bạn càng hiểu biết rằng quan niệm về lẽ phải và chân lý không phải tùy ý, nhưng dựa vào một vài chân lý cao quý và phổ quát ngoại tại -- một chân lý được viết trong chính bản tính của chúng ta. Chúng ta có thể không biết nó trọn vẹn , nhưng không thể chối rằng không có chân lý đó.


2. Kitô giáo không hơn gì các tín ngưỡng khác. Tất cả mọi tôn giáo đều dẫn đến Thiên Chúa."

Nếu bạn không nghe đến câu này vài chục lần, bạn không rút ra được bao nhiêu. Ðáng buồn là những người nói lên điều này thương lại là Kitô hữu (ít ra trên danh nghĩa).


Những trở ngại với quan điểm này thật không phức tạp gì cả. Kitô giáo đưa ra một chuỗi những lời xác nhận về Thiên Chúa và con người: Rằng chính Chúa Giêsu Nadareth là Thiên Chúa, và Người đã chết và sống lại -- tất cả để chúng ta được giải thoát khỏi tội lỗi. Mọi tôn giáo khác trên thế giới phủ nhận tất cả những điều này. Cho nên, nếu Kitô giáo là đúng, thì đạo này nói cho thế gian biết một chân lý sống còn -- một chân lý mà tất cả các tôn giáo khác phủ nhận.


Chỉ điều này thôi đã làm cho Kitô giáo thành duy nhất.


Nhưng nó không ngừng ở đó. Hãy nhớ lại lời Chúa Giêsu trong Tin Mừng Thánh Gioan.
"Thầy là đường, sự thật, và sự sống; không ai có thể đến với Chúa Cha, mà không qua Thầy." Trong Kitô giáo, chúng ta có trọn sự mạc khải của Thiên Chúa cho nhân loại. Ðúng là tất cả các tôn giáo chứa đựng một phần chân lý -- số lượng thay đổi tùy theo tôn giáo. Tuy nhiên, nếu chúng ta khao khát mong muốn theo và thờ phượng Thiên Chúa, chúng ta có nên làm theo cách Ngài chỉ dạy không?

Nếu Chúa Giêsu quả thực là Thiên Chúa, thì chỉ Kitô giáo chứa đựng hoàn toàn chân lý này.


3. "Cựu Ước và Tân Ước trái ngược nhau ở nhiều chỗ. Nếu một Thiên Chúa toàn năng linh hứng Thánh Kinh, thì Ngài đã không để cho có sai lỗi."


Ðây là một luận điệu thông thường, người ta có thể thấy khắp nơi trên Internet (nhất là những websites vô thần và tự do tư tưởng). Một bài trên website của Vô Thần ghi rằng "Ðiều lạ thường về Thánh Kinh không phải vì tác giả là Thiên Chúa; chính là những mâu thuẫn được bịa đặt vô nghĩa mà người ta có thể tin là được Thiên Chúa thượng trí viết ra."


Những câu như thế thường được kèm theo một danh sách những câu "mâu thuẫn" trong Thánh Kinh.  Tuy nhiên, những điều cho là mâu thuẫn có ít sai lầm đơn giản. Thí dụ, người phê bình không đọc những sách khác nhau trong Thánh Kinh theo thể văn mà các sách đó được viết. Xét cho cùng, Thánh Kinh là một sưu tập nhiều loại văn tự... lịch sử, thần học, thơ phú, và khải huyền,vv.... Nếu chúng ta đọc các sách này cùng một cách cứng ngắc như chúng ta đọc báo ngày nay, thì chúng ta sẽ bị bối rối kinh khủng.


Và danh sách "các mâu thuẫn" trong Thánh Kinh minh xác điều này. Thí dụ lấy điều đầu tiên trong danh sách Vô Thần của Mỹ:
"Hãy nhớ ngày Sabát, và giữ nó cách thánh thiện." Xuất Hành 20:8

So với
"Người thì cho rằng ngày này trọng hơn ngày khác; người khác lại cho rằng ngày nào cũng như nhau. Vậy mỗi người phải xác tín trong thâm tâm mình." Rom 14:5

Người vô thần la lên: Ðó! rõ ràng là một mâu thuẫn. Nhưng phê bình gia quên không nhắc đến điều mà mọi Kitô hữu đều biết: Khi Ðức Kitô thiết lập Giao Ước Mới, thì những đòi hỏi về nghi lễ của Giao Ước Cũ được làm trọn (và qua đi). Vì thế việc những luật lệ trong Cựu Ước về nghi lễ không còn được ứng dụng cho dân của Tân Ước là điều hoàn toàn hợp lý.

Nếu nhà phê bình hiểu giáo lý đơn giản này của Kitô giáo, thì anh đã không mắc phải một lỗi sơ đẳng như thế.

Ðiều kế tiếp trong danh sách của Vô Thần Mỹ cũng có khuyết điểm tương tự:
"...trái đất mãi mãi trường tồn."  

Giảng Viên 1:4

So với:
"...các nguyên tố vật chất sẽ cháy tiêu tan, trái đất và các công trình trên đó sẽ bị thiêu huỷ." 2 Phr 3:10

Vậy Cựu Ước cho rằng trái đất sẽ tồn tại đến muôn đời, trong khi Tân Ước nói rằng nó rồi sẽ bị hủy diệt. Chúng ta dung hòa hai câu này thế nào? Thực ra rất dễ, lại theo sự hiểu biết về thể văn mà theo hai sách này được viết ra.


Thí dụ Sách Giảng Viên so sánh cái nhìn thế tục và tôn giáo - và hẩu hết sách này viết theo quan niệm thế tục. Ðó là lý do tại sao chúng ta thấy những dòng như, "Bánh được làm cho vui, và rượu làm cho cuộc đời thêm tươi, và tiền bạc giải quyết được tất cả" (GV 10:19).
Tuy nhiên, ở cuối sách, tác giả đưa ra một khúc quanh, không cần tất cả "sự khôn ngoan" ông tặng và bảo chúng ta "Kính sợ Thiên Chúa, và tuân giữ giới răn Ngài; vì đó là tất cả nhiệm vụ của con người.." (12:13).

Nếu một độc giả ngưng đọc trước khi đến cuối, thì người ấy sẽ bối rối như phê bình gia Vô Thần Mỹ. Tuy nhiên, vì quan điểm đó nảy ra khái niệm về một thế giới trường tồn bị gạt bỏ ở hàng cuối cùng của sách, hiển nhiên là không có mâu thuẫn với điều được mạc khải sau đó ở trong Tân Ước. (Và đây chỉ là một cách để trả lời tố cáo về sự khác biệt này)


Những "mâu thuẫn" khác giữ Cựu và Tân Ước có thể được trả lời cách tương tự. Hầu như với điểm nào, nhà phê bình cũng bị lầm lẫn về mạch văn, không để ý đến thể văn, và không để dành chỗ nào cho việc cắt nghĩa cách hợp lý.


Không một Kitô hữu biết suy nghĩ nào phải bối rối về những danh sách này.


4. "Tôi không cần đến Nhà Thờ. Bao lâu tôi là một người tốt, chỉ có điều đó mới đáng kể."


Luận điệu này dược dùng thường xuyên, và rất gian xảo. Khi một người nhận mình là "người tốt," người đó thật sự ám chỉ rằng họ "không phải là một người xấu." -- người xấu là người sát nhân, hiếp dâm, và trộm cắp. Phần đông người ta không cần cố gắng mấy để tránh các tội này, và đó là tư tưởng: Chùng ta muốn làm một số việc tối thiểu để được thông qua. Ðiều đó không giống Ðức Kitô lắm, phải không?


Nhưng bỏ qua trạng thái tâm lý đó, có một lý do quan trọng để người Công Giáo đền Nhà Thờ hơn là chỉ để thực hành việc đi thêm một dặm nữa. Thánh Lễ là viên đá góc của đời sống đức tin của chúng ta vì một điều nằm ở trọng tâm của nó: Bí Tích Thánh Thể. Ðó là nguồn mạch của tất cả đời sống cho người Công Giáo, là những người tin rằng bánh và rượu trở nên Mình và Máu thật của Ðức Kitô. Chứ không phải chỉ là biểu tượng của Thiên Chúa, nhưng là Thiên Chúa hiện diện cách thể lý với chúng ta bằng một phương thế mà chúng ta chỉ có thể cảm nghiệm được bằng cầu nguyện.


Chúa Giêsu phán, "Thật, Thật, Ta bảo các người, trừ khi các người ăn thịt Con Người và uống máu Người, các người không có sự sống trong các người; ai ăn thịt và uống máu Ta có sự sống đời đời, và Ta sẽ cho người ấy sống lại trong ngày sau hết" 
(Ga 6:53-54). Chúng ta tôn trọng lệnh của Chuá Giêsu và tin tường vào lời hứa của Người mỗi lần chúng ta đi dự Thánh Lễ.

Hơn nữa, bí tích Thánh Thể, cùng với tất cả các bí tích khác, chỉ dành cho những người ờ trong Hội Thánh. Là phần tử của Hội Thánh, nhiệm thể hữu hình của Ðức Kitô trên thế gian, đời sống chúng ta liên hệ mật thiết với đời sống của người khác trong Hội Thánh. Liên hệ cá nhân của chúng ta đối với Thiên Chúa thật quan trọng, nhưng chúng ta cũng có nhiệm vụ sống như những phần tử trung thành của nhiệm thể Ðức Kitô. Là "người tốt" mà thôi chưa đủ.

5. "Bạn không cần phải xưng tội với một linh mục. Bạn có thể đến thẳng cùng Thiên Chúa."


Như một cựu mục sư Baptist, tôi có thể hiểu việc chống xưng tội của người Tin Lành (họ hiểu về chức linh mục một cách khác). Nhưng một người Công Giáo mà nói một điều như thế... thì thật là thất vọng. Tôi nghi rằng bản tính loài người là thế, người ta thường không thích nói cho người khác biết tội mình, nên đưa ra lý do để biện minh tại sao không làm thế..


Bí Tích Giải Tội đã có với chúng ta từ đầu, từ chính Lời của Ðức Kitô:
"Chúa Giêsu lại bảo các ông, 'Bình an cho các con! Như Chúa Cha đã sai Thầy, thì Thầy cũng sai các con.' Nói rồi, Người thổi hơi vào các ông và bảo các ông, 'Các con hãy nhận lấy Chúa Thánh Thần. Nếu các con tha tội cho ai, thì người ấy được tha; nếu các con cầm buộc ai, thì người ấy bị cầm buộc.'” (Ga 20:21-23)

Nên ghi nhận rằng Chúa Giêsu ban cho các tông đồ quyền tha tội.. Tất nhiên, họ không biết phải tha tội nào nếu họ không được nói cho biết là tội nào chúng ta phạm.

Việc xưng tội cũng được chứng minh trong thư thánh Giacôbê:
Có ai trong anh em đau ốm? Hãy mời các kỳ mục của Hội Thánh, và hãy để họ cầu nguyện trên người ấy, xức dầu cho người ấy nhân danh Chúa; Và lời cầu nguyện do đức tin sẽ cứu người bệnh; và Chúa sẽ nâng người ấy dậy, và nếu người ấy đã phạm tội, thì sẽ được Chúa thứ tha. Anh em hãy xưng tội với nhau và cầu nguyện cho nhau để được chữa lành. Vì lời cầu xin tha thiết của người công chính có hiệu lực rất lớn lao. (Gia 5:14-16)
Ðiều đáng quan tâm là không có chỗ nào Thánh Giacôbê (hay Chúa Giêsu) bảo chúng ta là chỉ xưng tội với Thiên Chúa, nhưng các Ngài có vẻ nghĩ là ơn tha tội đến bằng cách xưng tội công khai.

Và lý do thật dễ hiểu. Khi chúng ta phạm tội, chúng ta làm tổn thương không những mối liên hệ của chúng ta với Thiên Chúa, mà còn với Nhiệm Thể Người, là Hội Thánh (vì tất cả mọi người Công Giáo nối kết với nhau như con cùng một Cha). Cho nên khi chúng ta xin lỗi, chúng ta phải xin lỗi tất cả mọi nhóm liên hệ - Thiên Chúa và Hội Thánh.

Hãy nghĩ về xưng tội cach này. Thử tưởng tượng rằng bạn vào một tiệm và ăn cắp vài món hàng. Sau đó, bạn áy náy và hối hận về hành động tội lỗi này. Giờ đây, bạn có thể cầu xin Thiên Chúa tha cho bạn vì đã phạm giới răn của Ngài. Nhưng còn một phần tử khác liên hệ; bạn phải trả lại món hàng và đền bù cho hành động của bạn.

Ðối với Hội Thánh cũng thế. Trong toà giải tội, linh mục đại diện cho Thiên Chúa và Hội Thánh, vì chúng ta có tội với cả hai. Và khi ngài công bố lời tha tội, thì sự tha thứ chúng ta lãnh nhận được trọn vẹn.

6. "Nếu Hội Thánh thật sự theo Chúa Giêsu, thì đã bán các nghệ thuật, tài sản, và các công trình kiến trúc lãng phí, mà cho người nghèo."


Khi một người nghĩ đến Thành Vatican, họ liên tưởng ngay đến một vương quốc giàu sang, với nơi ở như cung điện cho Ðức Giáo Hoàng và các hòm đầy vàng cất ở các xó nhà, chưa kể đến các sưu tầm nghệ thuật và đồ cổ vô giá. Nhìn đến Vatican cách này thì dễ thấy tại sao một số người trở thành bực tức vì những điều họ nghĩ là sự khoe khoang tài sản cách phô trương và phí phạm.


Nhưng sự thật thì hoàn toàn khác. Các dinh thự chính gọi là "Ðiện Vatican" không phải được xây làm chỗ ở xa hoa của Ðức Giáo Hoàng. Thực ra, khu vực gia cư tương đối nhỏ. Phần lớn điện Vatican được dùng vào việc nghệ thuật, khoa học, điều hành công việc Hội Thánh, và điều hành chung của điện. Có một số đông nhân viên của Hội Thánh và hành chánh sống trong điện Vatican cùng ÐTC, làm cho nó thành trụ sở chính của Hội Thánh.

Còn về những sưu tầm nghệ thuật, thực sự là sưu tập quý nhất trên thế giới, Vatican coi đó như một "kho tàng không thể thay thế được," nhưng không phải về diện tài chánh. ÐTC không làm chủ những tác phẩm nghệ thuật này, và nếu ngài muốn, ngài cũng không được phép bán chúng; chúng chỉ được đặt dưới sự săn sóc của Toà Thánh. Các tác phẩm này không đem nguồn lợi đến cho Hội Thánh, mà ngược lại, Tòa Thánh phải đầu tư một số tài nguyên không nhỏ để bảo tổn các sưu tầm này.

Sự thật của vấn đề này là Tòa Thánh có một ngân sách khá eo hẹp Nếu thế thì tại sao lại giữ những nghệ phẩm này? Vì tin vào một trong các sứ mệnh của Hội Thánh là một động lực truyền bá văn minh trong thế giới. Cũng như các thầy dòng thời trung cổ cẩn thận chép lại các sách cổ để cung cấp cho các thế hệ tương lai -- nếu không thì những văn bản này không còn nữa -- Hội Thánh tiếp tục bảo trì nghệ thuật để chúng không bị mai một với thời gian. Trong nền văn hóa sự chết ngày nay khi mà từ "văn minh" chỉ được dùng cách lỏng lẻo, sứ vụ truyền bá văn minh của Hội Thánh ngày nay còn quan trọng hơn bao giờ hết.

7. "Chống đối thực sự là điều tích cực, vì tất cả chúng ta phải có đầu óc cởi mở đối với những tư tưởng mới."


Ngày nay có lẽ bạn đã nghe lập luận này nhiều rồi, nhất là trong vụ gương mù về lạm dụng tính dục trong Hội Thánh. Ai cũng muốn tìm giải pháp cho vấn đề, trong đó có người đưa ra những tư tưởng ngoài đức tin Công Giáo (như cho phụ nữ, hay mở cửa cho đống tính luyến ái làm linh mục, v.v...). Nhiều người đổ tội cho Hội Thánh vì quá cứng rắn về đức tin và không muốn thử những điều mới.

Sự thật là nhiều tư tưởng về cải cách được đề ra khắp nơi ngày nay không có gì là mới mẻ cả. Chúng đã được đề ra từ lâu, và Hội Thánh đã quan tâm đến chúng. Thực ra, Hội Thánh đã bỏ cả đời ra nghiên cứu cẩn thận các tư tưởng và quyết định rằng tư tưởng nào hợp với luật Thiên Chúa và tư tưởng nào không. Hội Thánh đã gạt ra hết lạc giáo này đến lạc giáo khác trong khi cẩn thận xây dựng giáo lý Ðức Tin. Chúng ta không ngạc nhiên gì khi thấy có cả ngàn giáo hội Kitô khác ngày nay -- tất cả các giáo hội đó đều một thời có "những tư tưởng mới" mà Hội Thánh cho là ngoài Kho Tàng Ðức Tin.

Hội Thánh có môt nhiệm vụ quan trọng là bảo vệ sự ven toàn của Ðức Tin. Hội Thánh không bao giờ loại bỏ ngay các tư tưởng như một số người chống đối kết án, nhưng đã có hai ngàn năm cầu nguyện và nghiên cứu đằng sau những gì phải tin và phải giữ gìn là chân thật.
Ðiều này không có nghĩa là chúng ta không bao giờ bất đồng ý kiến với nhau ở điểm gì. Luôn luôn có chỗ để thảo luận làm thế nào để đào sâu sự hiểu biết của chúng ta về chân lý -- thí dụ, làm sao để cải tiến các chủng viện hay các tương quan giữa giáo sĩ và giáo dân-- tất cả đều trong phạm vi của những nguyên tắc Ðức Tin.

8. Nếu giải thích đúng, Thánh Kinh không lên án đồng tính luyến ái. Nhưng đúng hơn là chống lối sống bừa bãi - dù là đồng tính hay giữa nam nữ. Vì vậy, chúng ta không có lý do để chống liên hệ tình yêu đồng tính."


Khi hành vi đồng tính luyến ái được chấp nhận rộng rãi hơn trong nền văn hóa của chúng ta, thì sẽ có nhiều áp lực hơn giữa các Kitô hữu để giải thích sự cấm đoán điều này cách tỏ tường trong Thánh Kinh. Hiện thời tiêu chuẩn của phe cấp tiến là cho rằng Thánh Kinh -- khi hiểu đúng -- không cấm những hành vi đồng tính.

Nhưng luận điệu này hoàn toàn trái ngược với những câu rõ ràng trong cả Cựu Ước lẫn Tân Ước. Các câu đầu tiên dĩ nhiên là câu chuyện thời danh về Sođôm và Gômôra. Nếu bạn nhớ lại chuyện hai thiên sứ được Thiên Chúa sai đến thăm ông Lót:
"Nhưng khi các ngài đi nằm thì dân trong thành, tức là người Sôđôm, bao vây nhà, từ trẻ đến già, tất cả mọi người không trừ ai. Chúng gọi ông Lót và bảo: "Những người vào nhà ông đêm nay đâu rồi? Hãy đưa họ ra cho chúng tôi chơi." Ông Lót ra trước cửa gặp chúng, đóng cửa lại sau lưng," rồi nói: "Thưa anh em, tôi xin anh em đừng làm bậy. Đây tôi có hai đứa con gái chưa ăn ở với đàn ông, tôi sẽ đưa chúng ra cho anh em; anh em muốn làm gì chúng thì làm, nhưng còn hai người này, xin anh em đừng làm gì họ, vì họ đã vào trọ dưới mái nhà tôi." Chúng đáp: "Xê ra! Tên này là một kiều dân đến đây trú ngụ mà lại đòi xét xử à! Chúng tao sẽ làm dữ với mày hơn là với những tên kia!" Họ xô mạnh ông Lót và xông vào để phá cửa. Nhưng hai người khách đưa tay kéo ông Lót vào nhà với mình, rồi đóng cửa lại.(STK 19:4-10)

Thông điệp của đoạn này thật rõ ràng. Các người Sôđôm là người đồng tính luyến ái muốn liên hệ tính dục với những người thanh niên ở trong nhà. Ông Lót cho họ con gái ông, nhưng họ không thích. Ít giờ sau, Sôđôm bị Thiên Chúa thiêu hủy để đền tội dân chúng phạm -- đó là các hành vi đồng tính luyến ái.  Sự thật này được Tân Ứớc xác nhận:
Như Sôđôm, Gômôra và các thành lân cận cũng có cùng một thái độ như họ, buông tuồng trong việc tà dâm, và chạy theo những chuyện xác thịt trái tự nhiên, thì đã được dùng để làm gương, bằng cách chịu phạt trong lửa đời đời. (Giuđa 7)

Nhưng không phải chỉ có những đoạn này trong Thánh Kinh lên án hành vi đồng tính. Cựu Ước còn có một câu khác lên án cách rõ ràng: "Ngươi không được nằm với đàn ông như nằm với đàn bà: đó là điều ghê tởm." (Levi 18:22).

Và những câu này không chỉ được giữ trong Cựu Ước mà thôi.
"Vì lý do đó mà Thiên Chúa đã để mặc họ theo dục tình đồi bại. Phụ nữ của họ đã đổi những liên hệ tự nhiên lấy những liên hệ trái tự nhiên. Ðàn ông cũng thế, bỏ liên hệ tự nhiên với phụ nữ để nôn nao thèm muốn lẫn nhau. Ðàn ông làm việc tồi bại với đàn ông, và như thế chuốc vào thân hình phạt xứng với sự suy đồi của họ." (Rom1:26-27)

Thật khó vô cùng cho những Kitô hữu cấp tiến giải thích câu này cách ngược lại. Ở đây không chỉ nói đến việc dâm loàn hay hiếp dâm của người đống tính; nhưng Thánh Phaolô chống lại bất cứ liên quan đồng tính nào (mà ngài diễn tả là "trái tự nhiên," "tồi bại" và "đồi bại").

Các Kitô hữu cấp tiến bị trói tay. Sau cùng, một người làm thế nào mà dung hòa đồng tính luyến ái với Thánh Kinh? Xem ra giải pháp của họ là lấy đi quyền về luân lý của Thánh Kinh, và giải thích vòng vo để tránh thông điệp thật rõ ràng này.

9. "Người Công Giáo nên theo lương tâm trong mọi sự... dù là phá thai, ngừa thai, hay phong chức thánh cho phụ nữ."


Ðúng --Sách Giáo Lý nói rất thẳng, "Con người có quyền hành động theo lương tâm và sự tự do để tự mình quyết định về luân lý. "Không được cưỡng bách ai hành động trái với lương tâm của họ. Cũng không được ngăn cản họ hành động theo lương tâm, đặc biệt là trong những vấn đề tôn giáo " (1782). Giáo huấn này là trọng tâm của điều gọi là có ý chí tự do.

Nhưng điều đó không có nghĩa là lương tâm chúng ta không phải chịu trách nhiệm hay có thể gạt luật của Thiên Chúa ra ngoài. Ðây là điều mà Giáo Lý gọi là có "một lương tâm được huấn luyện chu đáo."

Sách Giáo Lý trao cho lương tâm con người một trách nhiệm nặng nề:
"Lương tâm luân lý, hiện diện trong lòng người, ra lệnh vào lúc thích hợp cho con người làm lành lánh dữ.... Lương tâm chứng nhận quyền bính của chân lý bằng cách chiếu theo Sự Thiện Hảo tối thượng (Thiên Chúa), là Ðấng mà con người được thu hút và đón nhận mệnh lệnh. Khi nghe theo tiếng lương tâm, người khôn ngoan có thể nghe tiếng Thiên Chúa đang nói" (1777).

Nói cách khác, lương tâm chúng ta không phải chỉ là "cái gì chúng ta cảm thấy đúng"; mà là những gì chúng ta phán quyết là đúng dựa theo những điều chúng ta biết là giáo huấn của Thiên Chúa và Hội Thánh.  Và để phán đoán, chúng ta có nhiệm vụ học hỏi và cầu nguyện rất cẩn thận về những giáo huấn này. Sách Giáo Lý có trọn một phần dành riêng cho việc huấn luyện lương tâm cách kỹ lưỡng -- và nó quan trọng thế nào trong việc quyếtb định đúng.

Và sau cùng, dù đúng hay sai, chúng ta vẫn chịu trách nhiệm về việc chúng ta làm: "Lương tâm giúp chúng ta gánh nhận trách nhiệm đối với việc chúng ta làm" (1781). Khi được đào luyện đúng, nó giúp chúng ta thấy khi nào chúng ta làm sai và cần được tha thứ tội lỗi chúng ta.

Bằng cách cố gắng để có một lương tâm được đào luyện hoàn toàn, chúng ta thật sự cảm nghiệm được sự tự do lớn lao, vì chúng ta được lôi cuốn lại gần chân lý vô cùng của Thiên Chúa. Nó không phải là một gánh nặng hay là một cái gì ngăn cản chúng ta làm điều chúng ta thích; nhưng là một sự hướng dẫn giúp chúng ta làm những gì là đúng. "Việc giáo dục lương tâm đảm bảo sự tự do và đem lại bình an trong tâm hồn" (1784).

10. Phương Pháp Tự Nhiên chỉ là một cách ngừa thai của Công Giáo."


Phương Pháp Tự Nhiên (PPTN) có kẻ thù mọi mặt. Có người tin rằng đó là một cách ngừa thai khác thiếu thực tế (mà cách nào họ cũng không cho là có tội) trong khi người khác lại cho rằng nó cũng xấu chẳng khác gì ngừa thai.. PPTN phải đi giữa ranh giới của hai cực đoan.

Trước nhất, vấn đề chính của việc ngừa thai là nó ngược lại với bản chất của cơ thể chúng ta -- và cách chung sự tự nhiên. Mục đích của nó là tách rời hành động (tính dục) ra khỏi hậu quả (có thai), chính là hạ sự thánh thiện của tính dục xuống thành sự theo đuổi lạc thú thuần túy.

PPTN, khi dùng vì lý do chính đáng, thì còn hơn là một dụng cụ được dùng để xem đôi hôn nhân có phương tiện (dù là tài chánh, thể lý, hay tâm lý) để đón nhận một đứa trẻ vào cuộc đời của họ. Nó liên quan đến việc hiểu biết chính thân thể của mình, cẩn thận lưu tâm đến hoàn cảnh của bạn trong cuộc đời, thảo luận vấn đề với bạn đời, và trên hết là cầu nguyện. Thay vì thoát ly thực trạng đầy đủ của tính dục, bạn tham gia vào đó với một sự hiểu biết hơn về mọi khía cạnh liên quan.

Những người ủng hộ việc hạn chế sinh sản chỉ vào những người không thể cố gắng có thêm con, hay sức khỏe có thể bị nguy hiểm vì mang thai thêm. Nhưng đó là những lý do hoàn toàn chính đáng để dùng PPTN -- những hoàn cảnh mà phương pháp này hoàn toàn hiệu quả -- và Hội Thánh cho phép dùng nó.

Những người khác nghĩ rằng dùng bất cứ phương thức nào để giới hạn số con trong gia đình là đóng vai Thiên Chúa, hơn là để Ngài cung cấp cho chúng ta như Ngài thấy cần. Ðúng là chúng ta phải tin tưởng vào Thiên Chúa và luôn chấp nhận sự sống Ngài ban cho chúng ta, nhưng chúng ta không phải hoàn toàn buông xuôi về phương diện này.

Thí dụ, thay vì phung phí tiền bạc lung tung và nói rằng "Thiên Chúa sẽ cung cấp," các gia đình cẩn thận dự trù ngân sách tài chánh và cố gắng không tiêu xài quá khả năng của mình. PPTN cũng giống như ngân sách đó, giúp chúng ta suy nghĩ đến hoàn cảnh của chúng ta trong cuộc đời và hành động theo đó trong tinh thần cầu nguyện. Biết mình và dùng trí khôn cùng ý chí tự do, thay vì thụ động mong chờ Thiên Chúa lo liệu mọi sự, là một phần của bản tính con người. Chúng ta được mời gọi để trở nên những người quản lý tốt các hồng ân Chúa ban; chúng ta phải cẩn thận đừng coi thường các ân huệ này.

11. "Người ta có thể vừa ủng hộ phá thai (tự do chọn lựa) vừa đồng thời là Công Giáo."


Trong khi đây là một huyền thoại thông thường nhất mà người Công Giáo hiểu về đức tin của họ, nó cũng là một điều dễ đánh tan nhất. Sách Giáo lý không chẻ một chữ nào khi nói về phá thai: nó được liệt kê cùng với tội giết người trong các tội phạm đến điều răn thứ năm, "Chớ giết người."

Những đoạn sau nói rõ: "Sự sống con người phải được tôn trọng và bảo vệ cách tuyệt đối từ giây phút thụ thai" (2270). "Ngay từ thề kỷ thứ nhất Hội Thánh đã xác nhận sự dữ về luân lý của mọi cuộc phá thai cố tình. Giáo huấn này không thay đổi và sẽ không bao giờ thay đổi" (2271). "Hợp tác chính thức vào việc phá thai là tội trọng. Hội Thánh gán hình phạt vạ tuyệt thông cho các tội phạm đến sự sống con người" (2272).

Có thể nói rõ ràng hơn thế nữa. Tuy nhiên, có những người sẽ lý luận rằng là người "tự do chọn lựa" không có nghĩa là ủng hộ phá thai; nhiều người cho rằng phá thai là sai, nhưng không muốn áp đặt tư tưởng của mình trên người khác.

Ðó là lại là luận "điều đúng cho bạn có thể không đúng cho tôi" mà thôi. Hội Thánh cũng có câu trả lời cho lập luận này: "Những quyền bất khả xâm phạm của con người phải được xã hội dân sự và chính quyền nhìn nhận và tôn trọng. Những quyền này không lệ thuộc vào các cá nhân, hay cha mẹ, cũng không phải là một nhân nhượng của xã hội và của quốc gia, nhưng thuộc về bản tính con người và gắn liền với con người do chính hành động sáng tạo của Thiên Chúa mà từ đó sinh ra con người" (2273)..

Tính linh thiêng của sự sống là một chân lý phổ quát không thể coi thường được. Khuyên ai phá thai, hay ngay cà bỏ phiếu cho các chính trị gia cổ võ việc phá thai, là một tội trọng, vì nó đưa người khác đến tội trọng - là điều mà Sách Giáo Lý gọi là làm gương mù (2284).

Hội Thánh mạnh dạn và dứt khoát chống phá thai, và chúng ta là người Công Giáo cũng phải khẳng định lập trường của chúng ta như thế.

12. "Việc người ta nhớ lại cuộc sống ở kiếp trước chứng tỏ rằng luân hồi là đúng... và quan điểm của Kitô Giáo về Thiên Ðàng, Hỏa Ngục là sai."


Khi xã hội trở nên mê hoặc nhiều hơn với những hiện tượng siêu hình, chúng ta có thể chắc sẽ thấy thêm những vụ nhận rằng "nhớ lại kiếp trước". Quả thật, bây giờ có những tổ chức giúp bạn trở lại các kiếp trước của bạn bằng cách dùng thôi miên.

Trong khi điều này có thể thuyết phục một số người, chắc chắn rằng không thuyết phục được những người quen thuộc với thôi miên. Hầu như ngay từ đầu, các nhà khảo cứu đã ghi nhận rằng các bệnh nhân ngủ mê trong lúc bị thôi miên thường thêu dệt những câu chuyện ký ức phức tạp, mà sau đó được tỏ ra là không có thật. Những nhà chữa trị danh tiếng đã biết rõ hiện tượng này, và cẩn thận cân nhắc những gì bệnh nhân nói khi bị thôi miên.

Ðáng buồn là đây không phải là trường hợp đối với những người muốn tìm "bằng chứng" của luân hồi. Có lẽ thí dụ điển hình nhất của sự bất cẩn này là trường hợp nổi tiếng của Bridey Murphy. Nếu bạn không biết chuyện đó, thì đây là một tóm lược: Năm 1952, một bà nội trợ ở Colorado tên là Virginia Tighe được thôi miên. Bà bắt đầu nói giọng Ái Nhĩ Lan và cho rằng có thời bà là một phụ nữ tên là Bridey Murphy sống ở Cork, Ái Nhĩ Lan.

Câu chuyện của bà ta được viết thành cuốn sách bán chạy nhất, "Cuộc tìm kiếm Bridey Murphy," và được nhiều chú ý. Các ký giả lục xoát khắp Ái Nhĩ Lan để tìm người nào, hay chi tiết nào có thể xác nhận việc trở lại kiếp trước này. Trong khi không tìm được gì, trường hợp của Bridey Murphy tiếp tục được dùng để chống đỡ các lý luận về luân hồi.

Ðây là một điều bẽ bàng, vì Virginia Tighe bị phanh phui là giả trá vài chục năm qua. Thử nghĩ xem, các bạn bè của Virginia nhớ lại trí tưởng tượng linh động của bà, và khả năng bày đặt những câu chuyện phức tạp (thường xoay quanh tài nhái giọng mà bà ta đã đạt đến mức hoàn bị). Không những chỉ có thế, mà bà còn rất thích Ái Nhĩ Lan, một phần vì tình bạn với một phụ nữ người Ái mà tên họ là -- bạn oán xem -- Bridie.

Hơn nữa, Virgiania thêm vào câu chuyện trong lúc bị thôi miên nhiều điều khác nhau từ chính đời sống của bà (mà không cho nhà thôi miên biết sự song đôi này). Thí dụ, Bridey diễn tả về "Bác Plazz," mà các nhà nghiên cứu cho là cách nói sai của người Gaelic "Bác Blaise." Tuy thế họ bị cụt hứng khi khám phá ra rằng Virginia có một người bạn khi còn nhỏ mà bà gọi là "Bác Plazz."

Các nhà nghiên cứu ngạc nhiên khi Virginia nhảy điệu jig của Ái Nhĩ Lan trong một lần bị thôi miên.. Làm sao mà một bà  nội trợ ở Colorado lại học được cách nhảy jig? Ðiều huyền bí này được giải quyết khi người ta biết rằng Virginia đã học điệu nhảy này khi còn bé.

Như trường hợp Bridey Murphy cho thấy, những việc nhận là trở lại tiền kiếp luôn luôn gợi cảm hơn thức tế. Cho đến ngày nay, chưa có một trường hợp nào chứng minh được là có một người nhớ lại được kiếp trước. Chắc chắn là cò nhiều câu chuyện đã được kể lại dưới sự kiểm soát của một nhà thôi miên, tuy nhiên, bằng chứng của luân hồi (giông như Nàng Tiên Răng) vẫn tiếp tục tránh né chúng ta.

Thứ Sáu, 26 tháng 10, 2012

Chầu Lượt Giáo Xứ

Chúa nhật 21/10/2012, giáo xứ Cồn Cả đã long trọng mừng lễ khai mạc Năm Đức Tin trong tâm tình tạ ơn về hồng ân đức tin.
Trước thánh lễ, Ban giáo lý hạt Phủ Quỳ đã công bố kết quả mùa học giáo lý vừa qua, đồng thời trao thưởng cho các giáo xứ và các học viên trong giáo hạt đạt thành tích cao. Dù bước đầu còn nhiều khó khăn đối với một giáo hạt non trẻ, các giáo xứ tại Phủ Quỳ đã nỗ lực và liên đới trong sứ vụ giáo dục, thăng tiến đức tin cho thế hệ trẻ.
Đức cha Phaolô Nguyễn Thái Hợp, giám mục giáo phận, đã chia sẻ niềm vui về sự trưởng thành trong đời sống đức tin của cộng đồng kitô hữu tại miền sơn cước Phủ Quỳ, ân cần khích lệ và gợi ý việc cập nhật hóa phương pháp dạy giáo lý, tập huấn giáo lý viên tại giáo hạt này. Đặc biệt, Vị Chủ chăn giáo phận đã trao phần quà thưởng của riêng ngài cho các giáo xứ và học viên đã đạt giải giáo lý.
Chủ sự và giảng trong thánh lễ, Đức cha Phaolô đã trình bày những nét chính để sống Năm Đức Tin cách cụ thể, hiệu quả theo các điểm gợi mở mà Thượng Hội đồng Giám mục Thế giới đang nhóm họp tại Rôma về “Tân Phúc Âm hóa” và Thư mục vụ Năm Đức Tin của Hội đồng Giám mục Việt Nam:
“Chúng ta cần nhìn lại, kiểm điểm lại cuộc sống, hình thức giữ đạo trong Năm Đức Tin, cố gắng đổi mới phương pháp rao truyền , ngõ hầu đạo có thể đến với con người và xã hội hôm nay”
“Lời Chúa hôm qua, hôm nay và mãi mãi vẫn bất biến, thiên thu vạn đại. Cái mới nói đây đúng hơn ám chỉ lòng nhiệt thành của các tín hữu trong hăng say dấn thân sống và loan báo Lời Chúa, cũng như trong việc sử dụng phương pháp, ngôn ngữ và cách thế diễn tả Tin Mừng thích hợp với nhu cầu thời đại và con người hôm nay”
“Đức tin phải thể hiện trong cuộc sống, một cuộc sống phù hợp với nội dung tuyên xưng, và có khả năng làm chứng cho mọi người về vẻ đẹp, cái hay, cái tốt, về nhân ái và tâm linh của đạo Chúa”.
Quan tâm tới tương lai của giới trẻ tại Cồn Cả và Phủ Quỳ nói chung, Đức Giám mục Phaolô kêu mời cộng đoàn “phải làm sao giúp các em hiểu đạo và sống đạo, không chỉ tại giáo xứ Cồn Cả, giáo hạt Phủ quỳ, mà làm sao để các em thích nghi trong những môi trường rất khác biệt”.
Giáo xứ Cồn Cả nằm trên địa bàn xã Nghĩa Lộc, huyện Nghĩa Đàn, tỉnh Nghệ An. Năm 1919, Cồn Cả được tách ra từ xứ mẹ Thuận Nghĩa và chính thức trở thành giáo xứ. Là sở hạt của giáo hạt Phủ Quỳ, hiện xứ đạo này có trên 4200 giáo dân, do linh mục Phêrô Hoàng Biên Cương quản nhiệm.
J.B Quốc Tuấn
 
Nguồn : giaophanvinh.net

Thứ Sáu, 12 tháng 10, 2012

Người Công Giáo phải có thái độ nào đối với Tiền Bạc

Bài giảng Ngày Chúa Nhật Thường niên XXVIII B
Anh Chị Em thân mến,
Trong bài Tin Mừng Ngày Chúa Nhật Thường niên XXVIII B hôm nay, Chúa Giêsu nói đến sự nguy hiểm của tiền bạc khi khẳng định rằng người có tiền bạc thì khó lên thiên đàng: "Những người có của thì khó vào Nước Thiên Chúa biết bao! " (Mc 10,23).
Thấy các môn đệ sững sốt vì lời quả quyết này, Chúa Giêsu lại nhấn mạnh tiếp: “ "Các con ơi, vào được Nước Thiên Chúa thật khó biết bao! Con lạc đà chui qua lỗ kim còn dễ hơn người giàu vào Nước Thiên Chúa." (Mc 10,24-25). Nghe Chúa Giêsu nói mạnh hai lần như vậy về người giàu có, các môn đệ cho rằng không ai có thể được cứu rỗi vì ai cũng cần có tiền bạc mới sống được. Và lúc này Chúa Giêsu nhìn thẳng vào mặt các môn đệ và nói: "Đối với loài người thì không thể được, nhưng đối với Thiên Chúa thì không phải thế, vì đối với Thiên Chúa, mọi sự đều có thể được" (Mc 10,27).
Cộng đoàn phụng vụ chúng ta hãy cùng nhau suy niệm về đề tài: Người Công Giáo phải có thái độ nào đối với tiền bạc.

+++

Chúa Giêsu đối với tiền bạc thế nào?

Chúng ta biết Chúa Giêsu sinh và
sống trong một gia đình nghèo khó.

Khi người ta nghèo, người ta dễ lo âu về những gì phải ăn, phải mặc, phải ở.

Chúa Giêsu không phải là một con người vô tư, thiển cận, chỉ biết sống cho qua ngày đọan tháng, nhưng ngài là một con người rất thực tế và khôn ngoan. Thế mà lạ lùng thay, dù sống khó nghèo, nhưng ngài vẫn không băn khoăn lo lắng bao nhiêu về những vấn đề vật chất, của cải. Để chuẩn bị cho một cơ sở vĩ đại là Giáo Hội mà hiện nay vẫn còn vững mạnh, Chúa Giêsu không quan tâm gì đến phương diện vật chất. Trong nhóm mười hai môn đệ theo ngài, tuy ngài có đặt một người làm quản lý giữ túi tiền, nhưng Phúc Âm không nói gì đến một kế họach kinh doanh nào cả. Của dâng cúng do bà con hay ân nhân tặng cho, làm thế nào mà đài thọ đủ cho đời sống truyền giáo của Chúa Giêsu và các môn đệ. Thế mà khi đang còn sống cũng như lúc đã về trời, Chúa Giêsu vẫn để các tông đồ tiếp tục công trình cứu chuộc của mình với hai bàn tay trắng.

Không những sống khó nghèo và dạy sống khó nghèo, Chúa Giêsu đưa ra nhiều lời chống đối tiền bạc và dạy ta xa lánh tiền bạc. Khi nói đến của cải trần gian, ngài khuyên đừng nên tích trữ những đồ mối mọt đó, nhưng hãy tìm cách tích trữ của cải trên trời, nơi mối mọt và trộm cắp không làm hại được (x. Mt 6,19-20).

Đối với Chúa Giêsu, tiền bạc và nước trời, tiền bạc và Thiên Chúa, là hai đối thủ không đội trời chung, vì thế, ngài nói rõ lập trường dứt khóat đối với tiền bạc: Không ai có thể làm tôi hai chủ, không ai có thể vừa làm tôi Thiên Chúa, vừa làm to toi tiền của được (x. Mt 6,24).

Khi người thanh niên giàu có từ chối lời ngài mời gọi, ngài phóng ra một câu làm run sợ mọi người: “Kẻ giàu có thì khó vào nước trời. Con lạc đà chui qua lỗ kim còn dễ hơn người giàu có vào nước trời” (Mc 10,25).

Chúa Giêsu long trọng tuyên bố: “Được lời lãi cả thế gian nầy mà thiệt mất linh hồn, có được ích gì!” (Mt 16,26). Và ngài chúc phúc cho những ai không chạy theo tiền bạc: “Phúc cho những ai có lòng nghèo khó vì Nước Trời là của họ!” (Mt 5,3).

Vì sao Chúa Giêsu lại lên án tiền bạc như thế?

Vì sứ mạng của Chúa Giêsu Cứu Thế là cứu vớt trần gian khỏi sa đọa tội lỗi, là cứu sống loài người cho khỏi chết đời đời; mà một trong những thế lực đen tối và nguy hiểm nhất đang làm cho con người phải hư mất đời đời, là sự ham mê tiền bạc của cải vật chất ở đời nầy.

Khi ham mê chạy theo tiền bạc, chúng ta cho tiền bạc là tất cả, chúng ta xem tiền bạc là chúa tể của mình, chúng ta loại Chúa ra khỏi lòng mình, chúng ta đem luật lệ của tiền bạc ra thay thế luật lệ của Chúa, chúng ta tự do bóp méo lương tâm của mình, chúng ta thả cửa chà đạp luân lý.

Sa đọa và tội lỗi đầy tràn trên mặt đất nầy vì do lòng ham mê tiền bạc mà ra.

Chúng ta hãy kể ra: nào là bỏ đạo, chống đạo để được hưởng đôi chút lợi lộc vật chất; nào là lơ đạo, bê trễ, biếng nhác để có thời giờ mà làm ăn kiếm lợi; nào là sống gian dối để buôn gian bán lận hầu phỉnh gạt tiền bạc của kẻ khác; nào là bất công, bóp chẹt anh em, người đi ở, người làm thuê; nào là bất trung, không chịu giữ lời hứa, không chịu thi hành khế ước; nào là tung tiền ra để sống dâm ô, ngoại tình, sa đọa xác thịt, say sưa rượu chè, cờ bạc bê bết; nào là kiêu ngạo, cho mình có tiền có của thì phải làm chức cao, phải có quyền trọng, phải được mọi người kính nể, không ai được phê bình, sửa sai; nào là ích kỷ, không đại độ giúp đỡ các công việc từ thiện bác ái; nào là sống hưởng thụ trong nhà cao cửa rộng, đóng cửa gài then, không lo gì những kẻ sống khổ cực xung quanh mình...

Tiền bạc là cội rễ của mọi tội lỗi.

Tiền bạc cung cấp thức ăn cho đủ mọi tính xấu của con người. Tiền bạc phá tan nhân nghĩa, phá tan gia đạo. Tiền bạc bán rẻ lương tâm, làm cho lương tâm ra đen tối.

Đối với Chúa, tiền bạc dễ làm ngăn trở chúng ta đến với Chúa nếu chúng ta chưa biết Chúa; nếu chúng ta đã biết Chúa, thì tiền bạc dễ làm chúng ta xa lìa Chúa. Khi tiền bạc ngự trị trong lòng chúng ta, thì lòng tin cậy mến Chúa của chúng ta cũng không còn nữa.

Nhưng chúng ta phải biết rằng tự nó, tiền bạc không phải là xấu.

Tiền bạc chỉ xấu khi chúng ta lạm dụng nó, khi chúng ta dùng nó không nên, như lời thánh Bênađô nhận xét: “Của cải thế trần nầy đè nặng chúng ta nếu chúng ta có chúng, làm dơ bẩn chúng ta nếu chúng ta yêu chúng, dày vò chúng ta nếu chúng ta mất chúng”.

Trong Cựu Ước, có những vị thánh rất giàu, như thánh Abraham, thánh Gióp, vua thánh Đavít. Trong Tân Ước, ngay từ đầu Phúc Âm, chúng ta đã thấy Chúa Giêsu tiếp rước Ba Vua giàu sang.

Nếu biết dùng tiền bạc một cách đẹp lòng Chúa, người giàu dễ thi hành nhân đức trên hết của các nhân đức, đó là đức bác ái yêu thương người ta. Họ cũng dễ dàng thực hiện được nhiều công cuộc lớn lao để làm sáng danh Chúa, như đóng góp tiền bạc vào việc xây cất nhà thờ, nhà thương, trường học. Và như vậy, người giàu có thể được Chúa thưởng nhiều công nghiệp hơn, vì họ biết hy sinh nhiều tiền của cho Chúa để làm sáng danh Chúa. Vấn đề là đừng chạy theo tiền bạc mà bỏ Chúa, đừng thờ tiền bạc như chúa của mình.

Thái độ của người công giáo chúng ta đối với tiền bạc

Tiền bạc chỉ là phương tiện Chúa cho chúng ta dùng để lo việc cứu rỗi linh hồn mình và cứu rỗi linh hồn kẻ khác.

Đối với tiền bạc, chúng ta hãy nghe lời Chúa Giêsu khuyên dạy hãy dùng của cải đời này mà mua lấy nước thiên đàng đời sau, khi ngài nói về cái chết khốn nạn của người phú hộ giàu có kia: ”Ấy, kẻ nào thu tích của cải cho mình, mà không lo làm giàu trước mặt Thiên Chúa, thì số phận cũng như thế đó." (Lc 12,21).

Amen.
Linh mục Emmanuen Nguyễn Vinh Gioang


Đức Thánh Cha khai mạc Năm Đức Tin

11:08:53 PM VATICAN. Sáng ngày 11-10-2012, ĐTC Biển Đức 16 đã chủ sự thánh lễ cùng với 400 Hồng Y và GM thế giới, để khai mạc Năm Đức Tin.
Opening-of-the-Year-of-the-Faith-1.jpg

Buổi lễ cũng là dịp kỷ niệm đúng 50 năm khai mạc Công đồng chung Vatican 2, và 20 năm công bố Sách Giáo Lý Công Giáo.

Trong số 400 vị đồng tế với ĐTC có 80 Hồng y, 15 nghị phụ đã từng tham dự Công Đồng Vatican 2 (trong số 70 vị còn sống), 8 vị Thượng phụ và thủ lãnh của các Giáo Hội Công Giáo Đông phương, 191 TGM và GM, ngoài ra có 104 vị Chủ tịch HĐGM trên thế giới. Hiện diện tại buổi lễ với chỗ danh dự trên lễ đài đặc biệt có Đức Thượng Phụ Bartolomaios I, Giáo Chủ Chính Thống Constantinople và cũng là vị thủ lãnh danh dự chung của toàn Chính Thống giáo; tiếp đến là Đức Giáo Chủ Anh giáo, Rowan Williams, TGM Canterbury. Ngoài ra có hơn 20 ngàn tín hữu, trong đó có đông đảo các LM và tu sĩ, đặc biệt là sinh viên nam nữ của nhiều Đại học Giáo Hoàng ở Roma.

Cảnh tượng 400 vị GM đồng tế đi rước từ giữa quảng trường tiến lên lễ đài gợi lại hình ảnh cách đây nửa thế kỷ hàng ngàn nghị phụ cũng đi rước như thế tiến vào Đền thờ để cử hành thánh lễ khai mạc Công Đồng do Đức Gioan 23 chủ sự.

Một nghi thức khác nhắc lại Công Đồng, đó là cuộc rước Sách Thánh đặt lên ngai cạnh bàn thờ. Ngai giá sách này cũng đã được dùng trong Công Đồng, được đặt tại trung tâm Đền thờ trong khóa họp, để nói lên sự kiện chính Lời Chúa chủ tọa và hướng dẫn Công Đồng.

Bài giảng của Đức Thánh Cha

Trong bài giảng thánh lễ, ĐTC đã gợi lại biến cố khai mạc Công đồng chung Vatican 2 và ảnh hưởng của Công Đồng trên Giáo Hội, đồng thời cũng liên kết biến cố này với Năm Đức Tin mà ngài ấn định từ ngày 11-10 hôm qua, đến chúa nhật 24-11 năm tới. Ngài nói:

”Năm Đức Tin mà chúng ta khai mạc hôm nay gắn liền với toàn thể hành trình của Giáo Hội trong năm 50 năm qua, từ Công Đồng, qua Giáo Huấn của vị Tôi Tớ Chúa Đức Phaolô 6, Người đã ấn định Năm Đức Tin vào năm 1967, cho đến Đại Năm Thánh 2000, qua đó Chân Phước Gioan PHaolô 2 đã tái đề nghị với toàn thể nhân loại Chúa Giêsu Kitô là Đấng Cứu Thế duy nhất, hôm qua, hôm nay và mãi mãi..

”Công Đồng Vatican 2 đã không muốn đặt đề tài đức tin trong một văn kiện chuyên biệt. Nhưng Công Đồng đã hoàn toàn được linh hoạt nhờ ý thức và ước muốn có thể nói là phải tái chìm đắm trong mầu nhiệm Kitô để có thể tái đề nghị hữu hiệu cho con người ngày nay. Về điểm này Vị Tôi Tớ Chúa Phaolô 6 đã nói như sau 2 năm sau khi bế mạc Công Đồng: ”Tuy Công Đồng không đích thị bàn về đức tin, nhưng Công Đồng nói về đức tin trong mỗi trang, nhìn nhận đặc tính chủ yếu và siêu nhiên của đức tin, giả thiết đức tin phải toàn vẹn và mạnh mẽ, và kiến tạo các đạo lý của mình trên đức tin. Chỉ cần nhắc lại vài lời khẳng định của Công Đồng (...) để thấy rõ tầm quan trọng thiết yếu mà Công Đồng, phù hợp với truyền thống đạo lý của Giáo Hội, dành cho đức tin, đức tin chân chính, có nguồn mạch là Chúa Kitô và qua trung gian của Huấn quyền Hội Thánh” (Giáo lý buổi tiếp kiến chung ngày 8-3-1967).

ĐTC Biển Đức cũng nhắc lại cảm nghiệm bản thân của ngài: ”trong Công Đồng có một sự căng thẳng cảm động đối với nghĩa vụ chung là làm cho chân lý và vẻ đẹp của đức tin được rạng ngời trong thời đại chúng ta ngày nay, không hy sinh đức tin cho những đòi hỏi của hiện tại và cũng không gắn chặt đức tin với quá khứ: trong đức tin có vang dội hiện tại vĩnh cửu của Thiên Chúa, Đấng vượt lên trên thời gian và chỉ có thể được chúng ta đón nhận trong hiện tại không thể lập lại. Vì thế, tôi thấy rằng điều quan trọng nhất, đặc biệt là trong dịp kỷ niệm đầy ý nghĩa như hiện nay, cần phải khơi dậy trong toàn thể Giáo Hội sự căng thẳng tích cực ấy, sự khao khát nồng nhiệt tái loan báo Chúa Kitô cho con người ngày nay.”

ĐTC nhận xét rằng: ”Nhưng để đà thúc đẩy nội tâm này hướng đến sự tái truyền giảng Tin Mừng không phải chỉ là lý tưởng và không lẫn lộn, cần làm sao để sự thúc đẩy ấy dựa vào một nền tảng cụ thể và chính xác và nền tảng này chính là những văn kiện của Công Đồng Vatican 2, trong đó nó được biểu lộ. Vì thế, tôi đã nhiều lần nhấn mạnh về sự cần thiết phải trở về với văn bản của Công Đồng - để tìm ra tinh thần đích thực trong đó, - và tôi đã lập lại rằng gia sản đích thực của Công Đồng chung Vatican 2 là ở trong các văn kiện. Sự tham chiếu các văn kiện Công Đồng giúp tránh được những thái cực hoài tưởng lỗi thời hoặc thái độ chạy về đàng trước, đồng thời cũng giúp lãnh hội sự mới mẻ trong sự tiếp tục. Công Đồng không tạo ra điều gì mới về đức tin, cũng không muốn thay thế những gì cổ kính. Đúng hơn, Công Đồng quan tâm làm sao để cũng đức tin ấy tiếp tục được sống trong thời nay, tiếp tục là một đức tin sinh động trong một trong một thế giới đang biến chuyển.

”Nếu chúng ta tiến theo hướng đi đích thực mà Chân phước Gioan 23 muốn đề ra cho Công Đồng chung Vatican 2, chúng ta có thể thực hiện hướng đi đó trong Năm Đức Tin này, trong hành trình duy nhất của Giáo Hội muốn tiếp tục đào sâu hành trang đức tin mà Chúa Kitô đã ủy thác. Các nghị phụ Công Đồng muốn tái trình bày đức tin một cách hữu hiệu; và sở dĩ các vị cởi mở đối thoại trong tin tưởng với thế giới hiện đại là vì các vị chắn chắn về đức tin của mình, về đá tảng vững chắc trên đó họ dựa vào. Trái lại, trong những năm sau đó, nhiều người đã đón nhận não trạng thịnh hành mà không phân định, đặt lại vấn đề chính những nền tảng của kho tàng đức tin mà rất tiếc là họ không còn cảm thấy là của họ trong chân lý của họ.

”Sở dĩ hôm nay Giáo Hội đề nghị một Năm Đức Tin mới và tái truyền giảng Tin Mừng, không phải để cử hành một kỷ niệm, nhưng vì Giáo Hội đang cần Năm Đức Tin hơn cả cách đây 50 năm! Và câu trả lời cần đáp lại nhu cầu ấy cũng là câu trả lời mà các vị Giáo Hoàng và các nghị phụ mong muốn và được chứa đựng trong các văn kiện Công Đồng. Cả sáng kiến thành lập một Hội đồng Tòa Thánh thăng tiến việc tái truyền giảng Tin mừng cũng ở trong viễn tượng ấy. Tôi đặc biệt cám ơn Hội đồng này vì sự dấn thân đặc biệt cho Năm Đức Tin. Đâu là ý nghĩa một cuộc sống, một thế giới không có Thiên Chúa, thời Công Đồng người ta đã có thể biết từ một vài trang bi thảm của lịch sử, nhưng giờ đây rất tiếc là chúng ta thấy nó xảy ra hằng ngày chung quanh chúng ta. Đó là một sự trống rỗng đang lan tràn. Nhưng chính từ kinh nghiệm về sa mạc, từ sự trống rỗng ấy, chúng ta có thể tái khám phá niềm vui đức tin, tầm quan trọng sinh tử của đức tin đối với chúng ta. Trong sa mạc người ta tái khám phá giá trị của những gì là thiết yếu để sống; cũng thế trong thế giới ngày này có vô số những dấu chỉ, thường được diễn tả trong một hình thức mặc nhiên hoặc tiêu cực, về sự khao thát Thiên Chúa, về ý nghĩa tối hậu của cuộc sống. Và trong sa mạc, đặc biệt cần những người có đức tin, qua chính cuộc sống của họ, chỉ cho chúng ta con đường về Đất Hứa và giữ vững niềm hy vọng. Đức tin được sống thực mở rộng tâm hồn cho Ơn Thánh Chúa, là Đấng giải thoát khỏi thái độ bi quan. Ngày nay hơn bao giờ hết, rao giảng Tin Mừng có nghĩa là làm chứng một cuộc sống mới, được Thiên Chúa biến đổi, và chỉ đường.

“Bài đọc thứ I trích từ sách Huấn Ca nói với chúng ta về sự khôn ngoan của người du hành (Xc Hc 34,9-13): hành trình là biểu tượng cuộc sống và người lữ hành khôn ngoan là người đã học nghệ thuật sống và có thể chia sẻ với anh chị em mình - như vẫn xảy ra với các tín hữu hành hương theo con đường Santiago de Compostela, hoặc trên những con đường khác, không phải tình cờ mà các cuộc hành hương này tái thịnh hành trong những năm gần đây. Làm sao mà bao nhiêu người ngày nay cảm thấy cần phải đi hành hương theo những con đường ấy? Phải chăng tại đó họ tìm được, hoặc ít là trực giác được ý nghĩa cuộc sống của chúng ta trên trần thế? Đó cũng là cách thức chúng ta có thể áp dụng cho Năm Đức Tin: đó là một cuộc lữ hành trong sa mạc của thế giới ngày nay, trong đó ta chỉ mang theo mình những gì là thiết yếu: không gậy, không bao bị, không bánh và không tiền bạc, không mang theo hai áo dài, như Chúa nói với các Tông Đồ khi sai họ đi giảng đạo (Lc 9,3), như Tin Mừng và đức tin của Giáo Hội, mà các Văn kiện Công Đồng Vatican 2 diễn tả một cách rạng ngời, cũng như Sách Giáo Lý của Hội Thánh Công Giáo công bố cách đây 20 năm diễn tả.

Và ĐTC kết luận rằng ngày 11-10-1962 là lễ kính Đức Maria Chí Thánh Mẹ Thiên Chúa. Chúng ta phó thác cho Mẹ Năm Đức Tin, như tôi đã làm cách đây một tuần khi đến hành hương tại Loreto. Xin Đức Trinh Nữ Maria luôn chiếu sáng như ngôi sao trên con đường tái truyền giảng Tin Mừng. Ước gì Mẹ giúp chúng ta thực hành lời nhắn nhủ của Thánh Phaolô: ”Hãy để cho Lời Chúa Kitô ngự trị nơi anh chị em trong sự phong phú của Lời. Với mọi khôn ngoan anh chị em hãy dạy dỗ và nhắn nhủ nhau.. Và bất kỳ anh chị em làm hãy trong lời nói và công việc, tất cả hãy xảy ra nhân danh Chúa Giêsu, nhờ Người mà cảm tạ Thiên Chúa Cha” (Cl 3,16-17)

Đc Thượng Phụ Bartolomaios

Cuối thánh lễ, Đức Thượng Phụ Bartolomaios đã lên tiếng phát biểu. Ngài nhắc đến những ảnh hưởng tích cực của Công đồng chung Vatican 2 về đại kết Kitô, và gợi lại kinh nghiệm bản thân của ngài về Công Đồng, khi còn là một sinh viên trẻ học tại Giáo Hoàng Học Viện Đông phương ở Roma, và ngài cũng đích thân tham dự vài khóa họp đặc biệt của Công Đồng. Đức Thượng Phụ nói: ”Chúng tôi đã chứng kiến tận mắt các GM cảm nghiệm với một ý thức mới về giá trị của truyền thống và đức tin ”được thông truyền cho các thánh một lần cho tất cả ” (Giuda 1,3). Đó là một thời kỳ đầy triển vọng, nhiều hy vọng ở bên trong cũng như bên ngoài Giáo Hội Công Giáo.

Đức Thượng Phụ nhắc đến những tiến bộ cụ thể trong việc đối thoại thần học giữa Công Giáo và Công Giáo, và bao nhiêu thành quả khác của Công Đồng, và ngài nói đến nỗ lực chung mà Giáo Hội Công Giáo và Chính Thống có thể thực hiện được.

Ngài nói với ĐGH: ”Hiền Huynh quí mến, sự hiện diện của chúng ta ở đây có nghĩa và đánh dấu sự dấn thân chung của chúng ta cùng làm chứng cho sứ điệp cứu độ và chữa lãnh cho anh chị em nhỏ bé nhất của chúng ta: những ngừơi nghèo khổ, bị áp bức, bị gạt ra ngoài lề thế giới được Thiên Chúa tạo dựng. Chúng ta hãy bắt đầu những kinh nguyện cho hòa bình và an sinh của anh chị em Kitô chúng ta đang sống tại Trung Đông. Trong cái lò bạo lực hiện nay, sự phân cách và chia rẽ đang gia tăng giữa các dân nước, ước gì tình thương và ước muốn hòa hợp mà chúng ta đang tuyên bố ở đây, cũng như sự cảm thông và chúng ta tìm kiếm bằng đối thoại và tôn trọng lẫn nhau, trở thành mẫu mực cho thế giới chúng ta. Ước gì nhân loại có thể giơ tay ra cho người khác, và chúng ta có thể cùng nhau làm việc để khắc phục đau khổ của các dân tộc khắp nơi, đặc biệt là nơi họ đang chịu đau khổ vì đói khát, thiên tai, bệnh tật và chiến tranh, mà rốt cục chúng ảnh hưởng đến cuộc sống của tất cả chúng ta”.

Trao sứ đip Công Đồng

Sau khi ban phép lành kết thúc, ĐTC đã diễn lại một cử chỉ đã được thực hiện khi bế mạc Công Đồng chung Vatican 2: Đức Phaolô 6 đã trao 7 Sứ điệp gửi Dân Chúa.

ĐTC Biển Đức 16 cũng trao 7 Sứ điệp ấy cho các đại diện của cộng đồng nhân loại: vị Niên trưởng và Phó niên trưởng đoàn ngoại giao cạnh Tòa Thánh và 5 đại sứ năm châu lên nhận Sứ điệp, đại diện cho các chính phủ. Tiếp đến là đại diện của giới khoa học và trí thức, nghệ sĩ, các ký giả, phụ nữ, công nhân, di dân, giới trẻ, và cả một người tàn tật ngồi trên xe lăn nữa.
 
Opening-of-the-Year-of-the-Faith-6.jpg

Opening-of-the-Year-of-the-Faith-9.jpg

Opening-of-the-Year-of-the-Faith-3.jpg

Opening-of-the-Year-of-the-Faith-5.jpg

Opening-of-the-Year-of-the-Faith-2.jpg

Opening-of-the-Year-of-the-Faith-4.jpg

Opening-of-the-Year-of-the-Faith-7.jpg

Opening-of-the-Year-of-the-Faith-8.jpg

(G. Trần Đức Anh OP, RadioVaticana 11-10-2012)

Thư mục vụ của Đức Giám mục Giáo phận về Năm Đức Tin



Xã Đoài, ngày 1-10-2012


Số 10/12 TMV - TGM


Thư mục vụ về Năm Đức Tin


Kính gửi quý cha, quý chủng sinh, quý tu sĩ nam nữ và toàn thể anh chị em,

1. Đức Thánh Cha Biển Đức XVI sẽ khai mạc Năm Đức Tin vào ngày 11 tháng 10 năm 2012 và bế mạc vào ngày 24 tháng 11 năm 2013, nhân dịp kỷ niệm 50 năm khai mở Công đồng chung Vaticanô II và 20 năm công bố sách Giáo lý Hội Thánh Công giáo.

Đây là một cơ hội thuận lợi để chúng ta đào sâu ý nghĩa Đức Tin, cố gắng sống niềm tin trong đời thường và tìm những cách thế mới để biểu lộ niềm tin đó trong thời đại mới. Đức Thánh Cha ước mong rằng “năm nay sẽ khơi dậy nơi mỗi tín hữu khát vọng tuyên xưng đức tin viên mãn, với một xác tín được đổi mới, trong niềm tín thác và hy vọng”[1].

Trong định hướng đó và theo sự hướng dẫn của Bộ Giáo lý Đức tin, mọi thành phần Dân Chúa tại giáo phận Vinh được mời gọi học hỏi Đức Tin và “dấn thân một cách thuyết phục hơn nữa cho công cuộc Tân Phúc Âm hóa để tái khám phá niềm vui làm Kitô hữu và tìm lại niềm hăng say thông truyền Đức Tin” [2] cho đồng bào chúng ta.

I. Tìm hiểu và học hỏi sâu hơn kho tàng Đức Tin

2. Đức Tin vừa là hồng ân của Thiên Chúa (x. Mt 16,17) vừa là hành động tự do của con người để đáp trả hồng ân cao quý đó (x. GLCG số 153). Đức tin mở đường cho ta hiểu biết đúng về ý nghĩa cuộc đời mình, về thế giới và về con người. “Cánh cửa Đức Tin dẫn chúng ta vào đời sống kết hiệp với Thiên Chúa, đồng thời mở ra con đường bước vào Giáo Hội (…). Chúng ta có thể bước qua ngưỡng cửa đó khi Lời Chúa được loan báo và tâm hồn chúng ta chấp nhận để được ân sủng biến đổi. Bước qua cánh cửa đó sẽ kéo theo hành trình dấn thân trong suốt cuộc đời”(Tự Sắc Porta Fidei, số 1).

Quả thế, để có một Đức Tin sống động, chúng ta cần sự trợ giúp của ân sủng và tác động của Chúa Thánh Thần (x. Cv 16,14). Nhưng đồng thời chúng ta phải không ngừng khát khao tìm kiếm và học hỏi những chân lý do Thiên Chúa mạc khải trong Thánh Kinh và Thánh Truyền. Giáo Hội không bao giờ sợ chứng minh rằng Đức Tin không mâu thuẫn với lý trí và khoa học chân chính. Bản thân lý trí con người vốn đòi hỏi về điều có giá trị vững bền và trường cửu. Thánh Augustinô, một người không ngừng tìm kiếm chân lý đức tin, đã tóm tắt tương quan giữa Đức Tin và lý trí trong công thức: “Tin để hiểu và hiểu để tin” hay “nhờ tin tưởng mà được củng cố[3]. Người Á Đông chúng ta có một cách diễn tả tương tự khi nói: “Vô tri bất mộ - không biết thì không yêu mến”. Đúng thế, tin giúp ta hiểu biết và ngược lại hiểu biết giúp ta tin và yêu mến Thiên Chúa. Đức Tin của chúng ta cần phải được nuôi dưỡng và phát triển nhờ những cố gắng học hỏi và tìm kiếm liên lỉ của bản thân.

3. Chính vì thế, trong Năm Đức Tin, mọi thành phần Dân Chúa trong giáo phận được mời gọi chăm chú cử hành Đức Tin trong phụng vụ, nhất là Bí tích Thánh Thể. Tôi mời gọi tất cả các linh mục, chủng sinh, tu sĩ và giáo dân chăm chú học hỏi các văn kiện của Công đồng Vatican II và Giáo lý Hội Thánh Công giáo. Đây là hai nguồn tài liệu quan trọng, phong phú và chính thống của Giáo Hội như chiếc la bàn đáng tin cậy cho việc thực hiện cuộc canh tân đời sống kitô hữu trong giáo phận chúng ta.

Các giáo xứ cần tổ chức những buổi học hỏi Giáo lý Hội Thánh Công giáo và phổ biến tài liệu quý báu này cho mọi người, đặc biệt cho giới trẻ và cho những ai đang đi tìm ý nghĩa cho cuộc đời, để họ nhận ra vẻ đẹp của Đức Tin Kitô giáo.

Trong Năm Đức Tin, giáo phận sẽ ưu tiên nâng cao trình độ của các giáo lý viên. Các khóa tập huấn cho giáo lý viên đã bắt đầu sẽ được tiếp nối và kiện toàn, với nhân sự và quyết tâm mới. Rất mong các giáo hạt và các giáo xứ tích cực cộng tác với Ban Giáo lý và Đức tin của giáo phận để hoàn thành công tác này.

II. Thực hành và loan báo Đức Tin

4. Năm Đức Tin cũng sẽ là cơ hội tốt để sống và biểu lộ niềm tin qua việc thực thi bái ái - xã hội. Bởi vì, “Đức Tin không có Đức Mến sẽ chẳng sinh hoa kết trái, còn Đức Mến không có Đức Tin sẽ chỉ là một tình cảm luôn phó mặc cho ngờ vực. Đức Tin và Đức Mến cần hỗ tương nhau, đến độ cái này sẽ giúp cái kia thực hiện con đường của mình” (Tự Sắc Porta Fidei, số 14). Chính Đức Tin được năng động hóa bởi đức ái sẽ giúp chúng ta thực hiện công cuộc Tân Phúc Âm hóa tại mảnh đất quê hương này với năng động mới, phương pháp mới, ngôn ngữ mới và cách diễn tả phù hợp hơn.

Như thế, Đức Tin không chỉ dừng lại ở việc tuyên xưng nơi đầu môi chót lưỡi hay giới hạn ở nhà thờ, mà cần thể hiện trong đời thường và đi vào mọi lãnh vực của cuộc sống. Đức cố Giáo hoàng Gioan Phaolô II đã có lý khi khẳng định rằng:“Nếu một đức tin chưa trở thành (đời sống) văn hóa, thì đức tin đó chưa được đón nhận trọn vẹn, chưa thực sự được suy tư và chưa được sống cách chân thành”.

5. Sống trong môi trường xã hội Việt Nam hôm nay, một xã hội đầy bất công, bất trắc, bất an và bất ổn, người Công giáo Vinh phải là những chứng nhân không những về đời sống tâm linh, mà còn về những đức tính nhân bản như ngay thẳng, thật thà, hiền lành, trong sạch và trung tín. Chúng ta phải là những người đi đầu trong việc gìn giữ vệ sinh môi trường, tôn trọng lợi ích chung và giữ luật giao thông tốt hơn. Hơn bao giờ hết, chúng ta được mời gọi trở thành những người có khả năng đối thoại với anh chị em không tôn giáo và khác tôn giáo; quảng đại phục vụ và giúp đỡ những người nghèo khổ, bị bỏ rơi, v.v...

III. Kết luận

6. Đức Giáo hoàng Biển Đức XVI mời gọi tất cả các Kitô trên thế giới “phải lên đường để đưa con người ra khỏi sa mạc, đến nơi có sự sống, đạt tới tình bằng hữu với Con Thiên Chúa, đến gấn Đấng ban sự sống cho chúng ta” (Tự Sắc Porta Fidei, số 2).

Thể theo lời mời gọi của Đức Thánh cha, tất cả các giáo hạt trong giáo phận Vinh sẽ long trọng tổ chức lễ khai mạc Năm Đức Tin vào Chúa nhật 14.10.2012. Ước mong mọi cố gắng và sáng kiến dành cho Năm Đức Tin sẽ giúp chúng ta tái khám phá nội dung Đức Tin được tuyên xưng và mạnh dạn đưa ra các sáng kiến mới để canh tân đời sống, cũng như để biểu lộ và cử hành niềm tin trong môi trường xã hội.

Nhờ lời bầu cử của Đức Trinh Nữ Maria, Đấng được tuyên xưng là người “có phúc vì đã tin” (Lc 1,45), cùng với  “Sáu Ông Phúc Lộc”, những chứng nhân kiên cường của Đức Tin: thánh Lê Tùy, thánh Borie Cao, thánh Vũ Đăng Khoa, thánh Nguyễn Thời Điểm, thánh Nguyễn Khắc Tự, thánh Hoàng Khanh, xin Thiên Chúa chúc lành cho giáo phận Vinh chúng ta luôn trung kiên với Đức Tin của mình, bất chấp mọi gian nan, thử thách.                                                                   

+ Phaolô Nguyễn Thái Hợp

Giám mục giáo phận Vinh

Nguồn : giaophanvinh.net


Thứ Ba, 28 tháng 8, 2012

Ngừa thai và phá thai




Chúa Giêsu xác định: “Chính Thầy là Con Đường, là Sự Thật và là Sự Sống. Không ai đến với Chúa Cha mà không qua Thầy” (Ga 14,6). Ngừa thai là ngăn chặn sự sống, phá thai là hủy hoại sự sống, tức là giết chính Đức Kitô vậy!
Một phụ nữ lo lắng bế con đến gặp bác sĩ phụ khoa: “Bác sĩ, tôi có một vấn đề… nghiêm trọng, rất cần sự giúp đỡ của bác sĩ! Ông thấy đấy, con tôi còn chưa đến 1 tuổi và tôi lại đang mang thai lần nữa. Tôi không muốn những đứa trẻ sinh ra quá gần nhau”.
Bác sĩ hỏi: “Vậy cô muốn tôi làm gì?”. Người phụ nữ nói: “Tôi muốn ông giúp tôi ngừng mang thai. Tất cả nhờ ông”. Bác sĩ suy nghĩ một lúc, rồi ông nói với người phụ nữ: “Tôi nghĩ rằng tôi có một giải pháp tốt hơn cho vấn đề của cô. Và còn bớt nguy hiểm cho cô...”. Phụ nữ đó mỉm cười, tin tưởng bác sĩ có thể đáp ứng được yêu cầu của mình.
Nhưng bác sĩ nói tiếp: “Cô thấy đấy, để không phải chăm sóc hai đứa trẻ một lúc, cô hãy giết chết đứa trẻ cô đang bế trên tay. Bằng cách này, cô có thể nghỉ ngơi một thời gian trước khi đứa còn lại được sinh ra. Nếu chúng ta giết một trong hai đứa bé, không quan trọng là đứa nào phải không? Sẽ không có một mối nguy hiểm đe doạ nào cho cô nếu cô chọn đứa bé cô đang bế”.
Người phụ nữ kinh hoàng, mặt biến sắc, giọng run run: “Khô… ông. Không thể được, bác sĩ ơi! Làm vậy thực sự là quá khủng khiếp. Thật dã man khi giết một đứa trẻ...”. Bác sĩ trả lời: “Tôi đồng ý. Nhưng khi đến đây và nhờ tôi, cô có vẻ như chấp nhận được điều đó mà, vì vậy tôi nghĩ đó là giải pháp tốt nhất”.
Cô gái ôm chặt đứa bé trên tay, chào từ biệt bác sĩ ra về, và không còn nghĩ đến việc thực hiện điều mà cô vừa định làm trước đó ít phút...
Bác sĩ mỉm cười vì nhận ra ông đã giữ vững quan điểm của mình. Ông hạnh phúc vì đã thuyết phục được người mẹ rằng không có sự khác biệt nào trong việc giết chết một đứa trẻ đã được sinh ra và một đứa trẻ vẫn còn trong bụng mẹ. Tội ác là như nhau, không phải giết đứa lớn thì tội lớn, còn giết đứa nhỏ thì tội nhỏ hoặc không có tội!
Đâu đó trong ông cứ vang lên câu nói: “Sự phá thai nói tôi phải hy sinh người khác vì lợi ích của bản thân. Nhưng tình người ngăn tôi lại và nói tôi cần phải hy sinh bản thân mình vì lợi ích của người khác. Nếu bạn đồng ý, xin hãy chia sẻ thông điệp này đến những người khác. Chúng ta có thể cùng nhau cứu được rất nhiều mạng sống quý giá!”.
Nhưng thật buồn thay đã có những “nghĩa trang thai nhi”, mỗi nghĩa trang có đến hàng chục ngàn “ngôi mộ vô tội”, và mới đây, ngay tại thành phố Hà Nội (thủ đô của Việt Nam), đã có một đám tang tập thể với 91 thai nhi!
Chính phủ Obama đã muốn “đổ lỗi” cho mọi người, kể cả các viện Công giáo, phải trả giá cho việc ngừa thai, các loại thuốc triệt sản và phá thai, đã nêu lên vấn đề Giáo huấn Công giáo về các vấn đề này.
Một số nhà phê bình đã lầm lẫn cho rằng Công giáo cấm làm các việc này khi nói tới Tông thư Humanae Vitae (Sự sống Con người, 1968 – về “điều chỉnh sinh sản”) của ĐGH Phaolô VI năm 1968, hoặc hoặc Tông thư Casti Connubii (1930 – về “tiết hạnh trong hôn nhân”) của ĐGH Piô XI năm 1930. Công đồng Vatican II đã xây dựng trên tài liệu này trong việc xử lý hôn nhân Công giáo theo hiến pháp Giáo Hội trong thế giới hiện đại.
Tông thư của ĐGH Piô XI được viết để đáp lại sự thay đổi luân lý của Anh giáo, đã xói mòn nhiều thế kỷ do sự kết án của Tin Lành về việc ngừa thai bằng cách cho phép điều đó từ Hội nghị Lambeth ngày 15-8-1930.
ĐGH Phaolô VI đã viết Tông thư Humanae Vitae để phản đối loại thuốc ngừa thai mới được phát minh hồi đó, không chấp nhận đó là phương tiện tránh thai hợp pháp đối với người Công giáo. Tuy nhiên, các Tông thư này, cùng với gần 100 phán quyết của Tòa thánh trong thế kỷ XX kết án việc tránh thai nhân tạo, chỉ trình bày lại lịch sử của thần học luân lý về vấn đề này.
Người Công giáo biết lịch sử này về giáo huấn luân lý đối với việc ngừa thai và phá thai để lấy lại vị thế của mình ngược với ủy quyền này, cũng như biết sống tốt đức tin Công giáo hơn. Vì thế, chúng ta sẽ đưa ra một số văn bản từ các nguồn của các Giáo phụ thời kỳ đầu của Kinh thánh để chứng minh Kinh thánh đã phản đối những việc này như thế nào, phổ biến trong xã hội Hy La.
Tham khảo sớm nhất nói tới việc ngừa thai và phá thai là tài liệu Didache (/ˈdɪdəkiː/; Koine Greek: Διδαχή – Didachē nghĩa là Giáo huấn), hoặc Giáo huấn của Mười hai Tông đồ. Tài liệu này có từ nửa sau thế kỷ I hoặc đầu thế kỷ II. Didache (phát âm là đi-đơ-ki) viết: “Người ta không được hạn chế sinh sản, không được giết thai nhi bằng cách phá thai hoặc giết cái gì do mình tạo ra”.
Nhiều bản dịch gọi đó là “thực hành ma thuật” (phù phép), vì từ ngữ Hy Lạp đôi khi có nghĩa này (x. Kn 12,4; Gl 5,20; Kh 18,23). Tuy nhiên, nó cũng có nghĩa là “thực hành y học” hoặc “sử dụng độc dược”, và thuật ngữ này có thể ám chỉ các “biện pháp tránh thai”, đó là trường hợp trong các văn bản sau đây.
Một văn bản thời kỳ đầu là “Epistle of Barnabas” (Thư của Thánh Barnaba): “Người ta không được giết một đứa trẻ bằng cách phá thai, cũng không được hủy hoại nó sau khi nó được sinh ra”. Điều này cũng cho thấy rằng các Kitô hữu thời kỳ đầu đã cấm phá thai.
Thế kỷ II, Thánh Clêmentô thành Alexandria viết trong “Paedagogus” (Παιδαγωγός – tác phẩm thứ nhì trong ba tác phẩm nổi tiếng của ngài): “Các phụ nữ dùng loại thuốc phá thai nào đó thì không chỉ giết phôi thai mà còn giết cả nhân loại”. Câu này ủng hộ cách dịch từ ngữ Didache bằng việc nói đến cách dùng thuốc phá thai.
Năm 177, Athenagoras thành Athens viết trong cuốn “Supplication for the Christian” (Thỉnh cầu người Kitô giáo): “Khi chúng tôi nói rằng các phụ nữ dùng thuốc phá thai là phạm tội giết người, và sẽ phải trả lẽ trước mặt Chúa về việc phá thai, chúng ta phá thai vì luật nào?”.
Đây là văn bản đầu tiên trong nhiều văn bản của các Giáo phụ xác định việc phá thai là tội sát nhân, cho thấy giá trị cao đối với tính người của thai nhi. Cuốn “Lời xin lỗi của Tertullian” năm 197, ông vẫn hiệp thông với Giáo Hội, ghi: “Trong trường hợp của chúng ta, giết người một lần cũng bị cấm, chúng ta không thể hủy hoại ngay cả bào thai còn trong tử cung, vì thai nhi đã lấy máu từ các phần cơ thể để làm dưỡng chất. Cản trở sinh sản là cách giết người mau hơn, dù người ta giết một sinh vật đã ra đời hoặc hủy hoại một sinh vật sắp sinh ra”. Chính Tertullian là người đã kết hôn và hiểu phẩm giá của thai nhi trong tử cung.
Thế kỷ III, Minucius Felix (năm 226) viết trong cuốn “Octavius” thế này: “Bằng cách uống thuốc, có một số phụ nữ hủy hoại con người trong chính cung lòng mình, vậy là họ phạm tội giết người”.
Khoảng năm 228, Thánh Hippôlytô viết về các phụ nữ không lập gia đình, kể cả một số người là Kitô hữu, có thai “bất hợp pháp”. Trong cuốn “Refutation of All Heresies” (Bác bẻ các Tà thuyết), Thánh Hippôlytô viết: “Phụ nữ là tín hữu mà lại dùng thuốc ngừa thai và bó buộc mình, để họ loại bỏ cái mình thụ thai vì không muốn có con hoặc vì nô lệ hoặc vì bạn tình, vì mục đích gia đình và vật chất. Đó là trái đạo lý vì vừa phạm tội dâm dục vừa phạm tội sát nhân! Vả lại, sau những hành động trơ tráo như vậy, họ không còn biết xấu hổ khi nhận mình là Công giáo”.
Thánh nhân cân nhắc động thái của họ là chối bỏ tình trạng Kitô hữu. Tài liệu “Constitutions of the Holy Apostles” (Hiến pháp của các Tông đồ) viết: “Người ta không được giết con mình bằng cách phá thai, hoặc giết cái gì được tạo ra, vì mọi thứ được hình thành và tiếp nhận linh hồn từ Thiên Chúa, nếu nó bị giết thì sẽ bị trả báo, vì đã hủy hoại bất chính”. Câu này chứng tỏ rằng bào thai có linh hồnsự sống của nó phải được bảo vệ ngay từ khi thụ thai.
Thế kỷ IV, các tác giả Hy Lạp và Latin đã nói về các vấn đề này. Thánh Augustinô (*) viết trong cuốn “On Marriage and Concupiscence” (Hôn nhân và Nhục dục – năm 419): “Tôi giả sử, dù người ta không ăn nằm với vợ để sinh con đẻ cái, không để dâm dục làm bế tắc việc sinh con vì ý xấu. Những người làm vậy, dù họ là vợ chồng, thì không còn là vợ chồng; hoặc họ ngăn cản thực tế hôn nhân, nhưng với một người đứng đắn đã che giấu điều ô nhục”.
Thánh Basiliô Cả viết trong “First Canonical Letter” (Thư Giáo luật thứ nhất, năm 374): “Phụ nữ cố ý hủy hoại đứa con chưa sinh của mình là phạm tội giết người. Với chúng ta, không có hướng dẫn để được hoặc không hình thành. Trong trường hợp này, đó không chỉ về việc sinh ra người được xác nhận, mà phụ nữ đó còn tự tấn công mình, vì trong đa số trường hợp, các phụ nữ đều muốn chết. Hủy hoại thai nhi là thêm trọng tội khác, tội giết người lần thứ nhì, với mọi sự kiện, nếu chúng ta coi điều đó là cố ý làm”.
Lý do ngài nói đến “việc điều tra có được định hình hay không” mà một số thần học gia nghĩ rằng một linh hồn không phát triển trong bào thai cho tới tháng thứ ba hoặc muộn hơn. Thánh Basiliô cho biết rằng điều này không là vấn đề vì ở bất cứ giai đoạn nào thì việc hủy hoại bào thai đều là “trọng tội” và là “sát nhân”. Pace Nancy Pelosi nói rằng vì Thánh Augustinô nghĩ rằng linh hồn bắt đầu có trễ trong thai kỳ, do đó việc phá thai có thể chấp nhận trong thời gian đầu. Thánh Basiliô cho rằng lý luận sai lầm như vậy là vô căn cứ.
Thánh Giêrônimô viết trong Lá thư 22 gởi Eustochium (năm 396): “Một số người, khi thấy mình có con ngoài ý muốn, họ dùng thuốc phá thai, và khi họ chết với đứa con (thường xảy ra), họ vào “thế giới thấp” mang theo tội không chỉ là tội ngoại tình chống lại Thiên Chúa, mà còn phạm tội tự tửgiết con. Những người này nói: “Tới mức tinh khiết thì mọi thứ đều tinh khiết. Lương tâm tôi đủ hướng dẫn cho tôi. Trái tim thuần khiết là cái Thiên Chúa kiếm tìm”.
Ở đây, Thánh Giêrônimô từ chối lương tâm của sự phá thai là sự hướng dẫn đầy đủ. Những điều này được làm rõ trong các thế kỷ sau, lương tâm phải được định hình đúng để Thiên Chúa có thể thực sự tìm được tâm hồn thuần khiết trong mỗi con người.
Không chỉ các thần học gia nổi tiếng nói về việc phá thai và tránh thai, một số Công đồng cũng đề cập. Công đồng Elvira (Tây Ban Nha – năm 305) tuyên bố 2 điều cấm cử hành các bí tích cho các phụ nữ phá thai: “Nếu một phụ nữ có thai vì tội ngoại tình, khi chồng vắng nhà, và sau đó phụ nữ này hủy bỏ đứa con, phụ nữ này không được rước lễ cho tới lúc chết, vì phụ nữ này phạm hai trọng tội”. Giáo luật 68 viết: “Nếu một tân tòng mang thai vì gian dâm và giết hại đứa con, phụ nữ này chỉ có thể được rửa tội lúc cuối đời”.
Quyết định tương tự cũng đạt được tại Công đồng Ancyra (năm 314): “Liên quan các phụ nữ phạm tội gian dâm và phá thai, hoặc những người được thuê làm thuốc phá thai, họ không được rước lễ cho tới lúc chết”.
Không Giáo phụ nào hoặc Công đồng nào đưa ra ý kiến ủng hộ vấn đề tránh thai và phá thai. ĐGH Piô XI, Chân phước Phaolô VI và Chân phước Gioan Phaolô II cũng đưa ra giáo huấn về vấn đề tương tự, bắt đầu từ các thế hệ đầu tiên, tiếp tục qua thời Trung cổ, và được các nhà cải cách Tin Lành dạy. Chính Martin Luther gọi những người dùng biện pháp tránh thai là “ngu xuẩn”, “thú vật” và “con heo”. Còn John Calvin nói rằng việc tránh thai “bị kết án” và “hết sức ghê tởm”, còn phá thai là “tội trọng không thể chuộc tội”.
Các ĐGH đã kêu gọi Giáo Hội áp dụng phương pháp luân lý và thánh thiện đối với hôn nhân và sinh sản con cái. Chúng ta định hình lương tâm theo ánh sáng của truyền thống kiên định này, đồng thời chúng ta phải dạy và sống như vậy nhờ hồng ân Thiên Chúa ban cho chúng ta.
Chúa Giêsu xác định: “Chính Thầy là Con Đường, là Sự Thật và là Sự Sống. Không ai đến với Chúa Cha mà không qua Thầy” (Ga 14,6). Ngừa thai là ngăn chặn sự sống, phá thai là hủy hoại sự sống, tức là giết chính Đức Kitô vậy!

-------------------------------------------------------

(*) Khi viết điều này, ngài đã làm giám mục giáo phận Hippo, ngài cũng đã “có tiếng” là sống với vợ lẽ 14 năm và có 1 con trai với bà này. Do đó, ngài có kinh nghiệm sống đời sống gia đình và rút kinh nghiệm từ những sai lầm của chính mình.


TRẦM THIÊN THU
Nguồn : giaophanvinh.net

Chủ Nhật, 26 tháng 8, 2012

Đối chất ma quỷ


Với những câu chuyện thật của những người và những ngôi nhà bị “ma ám”, cuốn “Exorcism: Encounters with the Paranormal and the Occult” (Trừ quỷ: Đọ sức với Siêu linh và Huyền bí) là sách mà bạn không thể bỏ xuống sau khi đọc vài trang. Nhưng khác với những cuốn tiểu thuyết tiêu biểu về ma quái, ma cà rồng, và những ngôi nhà ma ám, cuốn sách này hoàn toàn đáng tin vì là sách được viết bằng ngòi bút “sắc bén” của linh mục Jose Francisco C. Syquia, giám đốc Văn phòng Trừ quỷ của Tổng Giáo phận Manila (Archdiocese of Manila Office of Exorcism), và được viết theo giáo lý Công giáo.
Tôi đã đọc cuốn sách này vài năm trước nhưng rồi để nó “ngủ yên” trên kệ sách. Tới một ngày cuối tháng Hai, lúc chúng tôi nghi là gia đình của con trai tôi là “đích nhắm” của ma quỷ. Tôi không an tâm. Đứa cháu nội yêu dấu của tôi là Juan Lorenzo bị “nhắm” tới. Là bà nội sẽ làm gì? Tôi cầu nguyện nhiều, dâng những việc hy sinh cho Chúa – và lấy sách của LM Syquia để được hướng dẫn.
Tôi bảo cháu viết ra những trải nghiệm của cháu và các chiến lược của ma quỷ, và tôi nghĩ nên viết về sách của LM Syquia làm sườn cho câu chuyện. Khi làm vậy, tôi nhận ra rằng tôi đang “khiêu chiến” với ma quỷ. Nhưng khi bạn phụng sự Thiên Chúa, bạn cứ tiến lên vì bạn cảm thấy Thiên Chúa đang thôi thúc bạn. Do đó, khi viết bản tóm lược này về cuốn sách của LM Syquia, tôi hy vọng sẽ làm cho bạn biết nhiều hơn về ma quỷ và sự hiện diện thật của ma quỷ (active presence) trên thế gian này.
MA QUỶ HIỆN HỮU!
Ai là các loại ma quỷ này? Theo LM Syquia giải thích, chúng là các thiên thần sa ngã vì kiêu ngạo và bị Tổng lãnh thiên thần Micae tống khứ khỏi Thiên đàng. Chúng ghét Thiên Chúa và chiến trường của chúng là thế gian, nơi chúng chiến đấu với các thiên thần của Thiên Chúa để giành lấy các linh hồn.
LM Syquia cũng cảnh báo chúng ta về tục lệ chữa bệnh mê tín (nhất là ở các vùng quê). Nhiều người trong chúng ta đã nghe nói về đủ loại thần linh ở chỗ này hay chỗ nọ. LM Syquia giải thích: “Đó chỉ là ma quỷ, chúng có sức mạnh như thiên thần và chúng vẫn hiện hữu sau khi sa ngã”.
Nói về việc ma quỷ tấn công một người nào đó, LM Syquia cho biết có 3 dạng. Dạng thứ nhất và phổ biến nhất là “chiếm hữu”, tức là ma quỷ kiểm soát thân xác của người đó – nhưng nó không thể kiểm soát linh hồn của người đó. Có 2 giai đoạn “câu thúc” của ma quỷ: ám ảnh và khống chế. Ám ảnh là bị ma quỷ kiềm chế thân xác nên có những ý tưởng quái gở trong ý nghĩ của người bị quỷ ám. Giai đoạn cao độ là lúc xuất hiện ý nghỉ muốn tự tử. Khống chế nghiêm trọng hơn ám ảnh. Có những “gánh nặng” hoặc nỗi thống khổ hành hạ người đó, có thể người đó cảm thấy đau nhức về thể lý, rối rắm về trí tuệ, bệnh tật về tâm lý (tâm bệnh), trầm cảm, nhìn thấy những cảnh kinh dị, và gặp ác mộng về ma quỷ. “Bị khống chế dữ dội” cũng giống như “bị ám ảnh” nhưng ma quỷ hoàn toàn kiểm soát nạn nhân.
LM Syquia liệt kê những cách mà ma quỷ có thể “ám” cả một gia đình. Ví dụ: Qua các chứng bệnh như bệnh tim, nhức đầu và đau bao tử; sự phân rẽ trong gia đình; bệnh về tâm lý và cảm xúc như tức giận và trầm cảmj; những cơn cám dỗ; kém lòng tin vào Thiên Chúa; thất bại trong công việc và các nỗ lực khác.
Trong chuyện trừ quỷ của cháu nội Juanlo của tôi, ma quỷ đã thể hiện qua các vết bầm tím trên cổ của cháu nội tôi, không thể giải thích về nguyên nhân của các vết bầm tím đó.
LM Syquia cũng cảnh báo về sự bành trướng của “Trào lưu Thời Đại Mới” (New Age Movement): “Sự ảnh hưởng huyền bí trong Thời Đại Mới có thể dễ dàng phát hiện bằng cách kiểm tra các tiêu đề sách. Có những cuốn sổ tay của ma thuật, tử vi và bói toán,... Giới trẻ đang bị thu hút vào các bộ phim như ‘Harry Potter’ và ‘Ma Thuật’, các trò chơi như ‘Dungeons and Dragons’ hoặc chương trình truyền hình như ‘Charmed’. Ngay cả trẻ em cũng không an toàn”.
LM Syquia liệt kê các cách áp dụng và các khí cụ của Trào lưu Thời Đại Mới mà người Công giáo nên tránh. Đó là những trò chơi ma thuật, bùa ngải, bói toán, cờ bạc, thôi miên, trầm mặc tiên nghiệm (transcendental meditation), phim ảnh và trò chơi khiêu dâm,... Nhiều người Công giáo đi lễ hằng ngày mà vẫn mua sách tử vi để “tham khảo”. Điều này chứng tỏ “miệng nam mô mà bụng một bồ dao găm”, chỉ tin Chúa bằng miệng!
VŨ KHÍ TÂM LINH
Thật vui khi Giáo hội đã cho chúng ta một số vũ khí mạnh mẽ để chống lại ma quỷ. Nhưng trước hết, chúng ta cần phân biệt 2 thuật ngữ: trừ quỷ và giải thoát. Chúng ta đã biết người trừ quỷ. Có thể chúng ta không biết rằng một linh mục phải có phép của đấng bản quyền (giám mục) mới được trừ quỷ. LM Syquia trích lời của Giáo luật: “Phép đó từ đấng bản quyền địa phương chỉ được ban cho một giáo sĩ có lòng đạo đức, hiểu biết, cẩn trọng và chính trực”.
Mặt khác, trong cuốn “Exorcist: A Spiritual Journey” (Người trừ quỷ: Hành trình tâm linh), LM Syquia định nghĩa “người giải cứu” (deliverance minister) là “linh mục, tu sĩ, hoặc giáo dân với đặc sủng giải thoát... Họ dùng các kinh nguyện giải thoát (không phải Nghi thức Rôma về Trừ quỷ) để xua đuổi ma quỷ khỏi người bị ám...”. Việc dùng kinh nguyện giải thoát được coi là trừ quỷ riêng tư.
Cũng trong cuốn sách nói trên, LM Syquia trích lời Thánh Alphong Liguori: “Việc trừ quỷ riêng tư là được phép đối với mọi Kitô hữu; việc trừ quỷ theo nghi thứ chỉ được phép đối với những người đã được chỉ định làm việc đó, và chỉ được phép của giám mục”.
Rất hiếm linh mục trừ quỷ, chúng ta có thể quy tụ nhóm để cầu nguyện giải thoát cho người bị quỷ ám, hoặc có thể cầu nguyện giải thoát chính mình (nếu bạn muốn có bản sao, xin nhắn tin về số +639178121362).
LM Syquia liệt kê một số “vũ khí” hiệu quả: Nước phép, ảnh tượng đã làm phép (đặc biệt là ảnh Thánh Bênêđictô), Áo Đức Bà và Ảnh Đức Mẹ Làm Phép Lạ, Chuỗi Mân Côi, nến phép, và sách kinh nguyện.
Đức Mẹ rất uy quyền. LM Syquia kể một câu chuyện mà ngài tin Đức Mẹ đã cứu ngài trừ quỷ rất khó khăn trong một bệnh viện nọ.
LM Syquia nhấn mạnh điều khác là các Kitô hữu phải “ở trong tình trạng ân sủng”. Tham dự Thánh lễ và rước lễ luôn là vũ khí cực mạnh chống lại ma quỷ. Như vậy, khi bị vây hãm, Kitô hữu nên cố gắng tham dự Thánh lễ thường xuyên.
CHỈ CÓ VÀ LUÔN LÀ CHÚA GIÊSU
Trong cuốn sách về “những chuyện kinh dị”, tôi thích nhất chương “Only Jesus and Always Jesus” (Chỉ có và luôn là Chúa Giêsu). LM Syquia nói rằng, khi bị ma quỷ tấn công, người ta tập trung vào ma quỷ, như thời gian trôi qua, người trừ quỷ hoặc người giải thoát nhận biết Thiên Chúa quyền năng biết bao! Vì “Thiên Chúa luôn cùng chiến đấu với chúng ta và không bao giờ rời xa chúng ta”. Quan trọng nhất là “tiếp tục tiến tới sự thánh thiện”. Thật vậy, khi bạn cảm thấy bị ma quỷ bao vây, bạn không còn sự giải thoát nào khác ngoài Thiên Chúa.
Khi tôi đặt tựa đề “Đối chất ma quỷ” cho bài viết này, tôi nên giải thích thêm. Thực ra, chúng ta không thể và không nên “đối mặt ma quỷ”. Ma quỷ là các thiên thần sa ngã nên rất mạnh hơn chúng ta. Chúng ta phải luôn “nhân Danh Chúa Giêsu” mà chống lại ma quỷ. Như vậy, chiến thắng của chúng ta luôn là chiến thắng của Chúa Giêsu. Ngài là sức mạnh của chúng ta và là Đấng bảo vệ chúng ta. Xin chúc tụng Chúa Giêsu và Thánh Danh Ngài: “Khi vừa nghe danh thánh Giêsu, cả trên trời dưới đất và trong nơi âm phủ, muôn vật phải bái quỳ” (Pl 2,10).

Lourdes Policarpio

Trầm Thiên Thu